+86-514-85073387

14 câu hỏi cần hỏi về bột màu cho ứng dụng sơn-----01-04

Jul 18, 2023

1. Việc tách các chất màu khác nhau trong sơn sẽ gây ra những tác động bất lợi nào đối với toàn bộ hệ thống?

Trong ngành sơn, việc các chất màu tách ra khỏi nhau trong sơn bột là điều rất bình thường, đặc biệt nếu có từ hai chất màu trở lên trong công thức. Việc tách sắc tố có thể dẫn đến sự phân bố sắc tố không đồng đều trên bề mặt lớp phủ sau khi khô.

Nếu là do sự khác biệt về nồng độ sắc tố trên bề mặt màng phủ thì hiện tượng sắc tố dư thừa ở khu vực cục bộ được gọi là hiện tượng nở hoa. Lũ lụt thực chất là sự phân tán theo chiều dọc của hỗn hợp sắc tố, ngăn cách các thành phần của hỗn hợp sắc tố với nhau.

Theo chiều dọc của màng sơn, nồng độ sắc tố bằng nhau, màu sắc giống nhau, nồng độ theo chiều ngang khác nhau, màu sắc khác nhau, bề ngoài màng sơn không đồng đều về màu sắc và sọc .

info-1-1
Nếu các sắc tố có cùng nồng độ trên bề mặt màng phủ và nồng độ khác nhau bên trong màng phủ thì chúng ta gọi đó là màu nổi. Nổi là sự phân tán theo chiều ngang của hỗn hợp sắc tố.

Theo hướng ngang, nồng độ sắc tố là như nhau và màu sắc nhất quán, nhưng màu sắc của lớp dưới không nhất quán và nồng độ sắc tố khác nhau. Khi sơn lên kính, chúng ta có thể quan sát thấy hiện tượng nổi.

Sự phân chia sắc tố phần lớn liên quan đến khả năng di chuyển khác nhau của các sắc tố khác nhau trong công thức. Chất phân tán có thể cải thiện loại bệnh sơn này.

2. Làm thế nào để tránh sử dụng chì cromat và chì molybdate độc ​​hại mà không ảnh hưởng đến màu sơn?

Do độc tính của bột màu chứa chì, các nước ngày càng hạn chế sử dụng bột màu chứa chì trong sơn. Các nhà sản xuất công thức thường thay thế các chất màu có chứa chì bằng các chất màu hữu cơ và titan dioxide.

Tuy nhiên, trong một số ứng dụng, các chất màu hữu cơ kết hợp với các chất màu hỗn hợp oxit kim loại (các chất màu tổng hợp vô cơ) cho thấy hiệu suất tốt hơn titan dioxide.

Màu sắc sống động, độ bão hòa và khả năng che phủ cao vốn có của các chất màu lai oxit kim loại mang lại cho các nhà tạo công thức nhiều khả năng hơn để giảm các chất màu hữu cơ đắt tiền trong công thức, giảm hoặc thậm chí loại bỏ titan dioxide.

Đối với bột màu hữu cơ cũng có nhiều loại bột màu có khả năng che phủ, chống chịu thời tiết rất tốt và có thể dùng để thay thế bột màu chì. Các sắc tố màu đỏ bao gồm Sắc tố đỏ 48:4, Đỏ 112, Đỏ 170, Đỏ 254, Đỏ 255, Tím 19, v.v.

Các sắc tố màu cam bao gồm Sắc tố cam 36, Cam 73 và các loại tương tự. Các sắc tố màu vàng bao gồm sắc tố màu vàng 74, vàng 109, vàng 110, vàng 139, vàng 151, vàng 154, v.v.

Đặc biệt trong các sắc tố màu vàng, chúng tôi khuyên bạn nên sử dụng bismuth vanadi molypden màu vàng (sắc tố màu vàng 184), bismuth vanadi molypden màu vàng sáng hơn nhiều so với sắc tố hỗn hợp oxit kim loại titan niken (sắc tố màu vàng 53), và có khả năng pha màu mạnh hơn, khả năng che giấu tốt hơn (thậm chí không cần thêm titan dioxide), khả năng chịu nhiệt và thời tiết vượt trội.

3. Những loại xanh phthalocyanine nào có thể được sử dụng trong ngành sơn phủ?

Màu xanh phthalocyanine chủ yếu bao gồm phthalocyanine đồng, có cấu trúc hóa học phức tạp và bề ngoài là bột màu xanh đậm. Phthalocyanine xanh có nhiều trạng thái tinh thể.

Có ba loại sản phẩm, đó là loại màu xanh phthalocyanine (sắc tố màu xanh 15) với ánh sáng đỏ và độ bền màu tương đối cao nhất; - Loại phthalocyanine blue (sắc tố xanh 15) có ánh sáng xanh và độ ổn định nhiệt động tương đối tốt nhất 15:3).

So với màu xanh phthalocyanine loại ε (sắc tố xanh 15:6) có ánh sáng đỏ sống động nhất. Trong các dung môi thơm (như xylene), màu xanh -phthalocyanine sẽ được chuyển thành màu xanh -phthalocyanine ổn định hơn.

Để ngăn chặn sự biến đổi này, thông thường trong quá trình tạo sắc tố của màu xanh phthalocyanine thô, một phần phthalocyanine đồng monoclo hóa được thêm vào để tạo thành màu xanh phthalocyanine loại ổn định dung môi hoặc sắc tố xanh 15:1.

Do bề mặt của sắc tố xanh phthalocyanine không phân cực nên tương tác với chất kết dính trong nhiều hệ thống phủ yếu, dẫn đến độ ổn định kém của hệ phân tán sắc tố.

4. Có thể sử dụng phương pháp nào để đánh giá nhanh hiệu suất phân tán của sắc tố?

Chúng ta có nhiều phương pháp trực tiếp và gián tiếp để đánh giá hiệu quả phân tán của chất màu. Ví dụ về các phương pháp trực tiếp là phương pháp tấm mịn, kính hiển vi quang học và điện tử.

Phương pháp tấm độ mịn:

Phương pháp thử nghiệm độ mịn của hạt nghiền Hegman là phương pháp thử nghiệm đơn giản và nhanh chóng về độ mịn của hạt nghiền trong hệ thống chất lỏng.

Tấm độ mịn Haishi là vật liệu thép không gỉ hình chữ nhật có hai rãnh nông được xử lý trên bề mặt. Rãnh nông dần trở nên nông hơn từ sâu 1{1}}0 micron đến 0 micron sau khi gia công chính xác. Một lượng nhỏ vật liệu mài mòn được thêm vào phần sâu nhất của rãnh. Máy cạo cạnh cạo với tốc độ đồng đều trên toàn bộ bề mặt cho đến điểm cuối nơi độ sâu rãnh bằng 0.

Thang đo được đánh dấu cách đều nhau bên cạnh rãnh, từ thang đo 0 ở rãnh sâu nhất đến thang đo 8 hoặc 10 trên bề mặt nằm ngang của tấm độ mịn.

Quan sát điểm mà điểm hạt dày đặc xuất hiện đầu tiên trong mẫu, tức là thang đo của các hạt sắc tố có thể quan sát rõ ràng nhô ra khỏi bề mặt vật liệu nghiền được coi là một chỉ số để đánh giá mức độ phân tán. Thông thường, ít nhất thang điểm 7 được coi là hợp lệ để phân tán.

Phương pháp kiểm tra độ mịn:

Việc sử dụng kính hiển vi ánh sáng cung cấp một phương pháp nhanh chóng, trực quan để phát hiện độ mịn của sắc tố. Và độ bền màu của sắc tố cũng có thể được quan sát.

Ngoài ra, có thể quan sát được hình dạng, kích thước và sự phân bố của các hạt sắc tố cũng như sự kết tụ của các sắc tố. Phương pháp thí nghiệm cụ thể là thả một giọt nhỏ vật liệu mài lên một phiến kính, sau đó đậy lại bằng một tấm kính đậy lại.

Cẩn thận không dùng lực quá mạnh khi phủ kính che để tránh vật liệu cần quan sát bị phân tách quá mức và ảnh hưởng đến việc kiểm tra. Nhược điểm chính của kính hiển vi quang học là độ phân giải quá thấp và độ phân giải tối thiểu chỉ khoảng 2 micron.

Phương pháp kiểm tra độ mịn kính hiển vi điện tử:

Độ phân giải cao của kính hiển vi điện tử là một điểm nổi bật. Nó có thể quan sát trực tiếp kích thước hạt của sắc tố và chính kích thước hạt của sắc tố có tác động quyết định đến độ trong suốt, tính lưu động và màu sắc của lớp phủ.

Nhược điểm của phương pháp kiểm tra độ mịn bằng kính hiển vi điện tử chủ yếu là thiết bị đắt tiền, thời gian kiểm tra dài và cần có kỹ thuật viên giàu kinh nghiệm để phân tích và giải thích dữ liệu kiểm tra. Ngoài ra, mẫu phải được làm khô trước khi đo.

Bạn cũng có thể thích

Gửi yêu cầu